Vị trí mổ trong phẫu thuật tăng vòng 1

Vị trí implant mô tả trong đó lớp ngực implant được đặt.

Subpectoral hoặc Submuscular- Thuật ngữ subpectoral và submuscular thường được sử dụng hoán đổi cho nhau và mô tả vị trí của các implant vú bên dưới cơ pectoralis chính, mà nằm dưới mô vú. Vị trí này được sử dụng phổ biến nhất và cho phép phần trên và giữa của bộ ngực được bao phủ bởi mô và mô vú. Vị trí của ổ bụng là tốt nhất cho những bệnh nhân mỏng với ít hoặc ít hơn 2 cm mô ngực hoặc mô dưới da. Vị trí này giúp giảm nguy cơ cấy ghép sẽ được nhìn thấy qua da sau phẫu thuật và có thể làm giảm các biến chứng lâu dài như co giật. Tuy nhiên, một số bệnh nhân tăng vú có thể nhận thấy chuyển động cấy ghép với sự co lại của cơ.

Subglandular - Một implant dưới vùng dưới được đặt dưới mô vú nhưng trên cơ ngực to. Vị trí này tốt nhất cho những bệnh nhân có lớp da trên ngực dày hơn, những người bị bỏ rơi tối thiểu (tức là võng trên ngực), hoặc những phụ nữ đã đặt implant dưới bụng trước đó cần một số hoạt động sửa đổi nhất định.

tang vong 1


Máy bay hai mặt- Thuật ngữ "máy bay kép" được sử dụng để mô tả sự gia tăng vú đặt implant dưới cơ quan ngực cao hơn nhưng nằm dưới trực tràng dưới mô vú. Kỹ thuật này đòi hỏi phải phẫu thuật cắt bỏ ở cả hai mặt phẳng và tốt nhất cho những bệnh nhân mỏng với số lượng vừa phải bị bỏ qua (tức là bị lõm ngực) khó có thể chính xác với việc đặt implant dưới hay dưới lề.

Subfascial - Mắt cơ của ngực chính là một lớp mô tế bào kết nối mạnh mẽ giữa mô vú và cơ. Các mô cấy dưới da được đặt dưới mô vú và mô của cơ quan sinh dục nhưng trên mô cơ. Mặc dù đây là một kỹ thuật khá mới, một số bác sĩ phẫu thuật cảm thấy rằng vị trí này có thể cho phép cấy thêm cấy ghép, giảm khả năng nhìn thấy cấy ghép, và giảm "đáy" (tức là không có triệu chứng của nếp gấp và cấy implant theo thời gian) trong khi làm giảm chuyển động của implant Cấy ghép vú bằng khuôn cấy ghép.

Loại cấy ghép
Silicone - Kể từ khi cấy ghép silic thế hệ đầu tiên cách đây gần 50 năm, chúng đã bị nhiều tranh cãi và đã trải qua nhiều thay đổi. Mặc dù không có sự tương quan y học hoặc khoa học giữa cấy ghép silicone và bệnh thấp khớp, việc cấy ghép silicone được kéo ra khỏi thị trường năm 1992 chủ yếu do áp lực của phương tiện truyền thông. Cấy ghép vú mới hơn, thế hệ thứ tư đã được cung cấp cho việc nâng ngực thẩm mỹ trong năm 2008. Cấy ghép ngày nay có vỏ bọc kép để giúp ngăn ngừa rò rỉ và được làm đầy với chất bổ sung "kẹo cao su" dày đặc (nghĩa là "cấy ghép gấu nhuyễn"). Cấy ghép silicone có xu hướng có cảm giác tự nhiên hơn và hiển thị ít gợn sóng hơn khi đặt trong mặt phẳng lồng con. Vì cấy ghép silicone có "rò rỉ thầm lặng" và không thấm nước như cấy mặn khi rụng, nên bệnh nhân phải trải qua MRI theo dõi 3 năm sau khi đặt và sau đó cứ hai năm một lần.

Saline - Saline cấy ghép có lợi ích của hiển thị giảm phát rõ ràng nếu vỡ và không cần theo dõi thường xuyên. Chúng rẻ hơn so với cấy silicone nhưng có xu hướng có cảm giác ít tự nhiên hơn và có thể xuất hiện rực hơn nếu đặt trong một mặt phẳng lồng con ở những bệnh nhân có da mỏng và mô ngực nhỏ.

Kích thước cấy ghép
Cấy ghép vú
Kích cỡ của implant được chọn để làm tăng vú là một quyết định rất cá nhân. Mặc dù không có công thức chính xác để xác định kích thước vú lý tưởng cho mọi bệnh nhân, nhưng có những hướng dẫn với mục tiêu tạo ra sự hài hòa và cân bằng giữa cơ thể dưới và phần trên, đồng thời mang lại cho bệnh nhân sự hài lòng lâu dài. Trong lần tư vấn ban đầu hoặc đánh giá trước phẫu thuật, Tiến sĩ Perez sẽ xác định mục tiêu của bệnh nhân về tăng thêm vú, khám sức khoẻ triệt để và thực hiện nhiều phép đo. Quan trọng nhất, Tiến sĩ Perez sẽ quyết định chiều rộng của vú, số lượng da bị mất nước, lượng mô vú hiện tại, vị trí núm vú và vị trí gấp nếp.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến